Trị vì Hàm_Phong

Năm Đạo Quang thứ 30 (1850), ngày 9 tháng 3, Thái tử Dịch Trữ lên ngôi, cải niên hiệuHàm Phong, lấy năm sau (1851) làm năm Hàm Phong nguyên niên.

Tân Hoàng đế Hàm Phong lên ngôi năm 19 tuổi, được xem là trẻ tuổi so với các Hoàng đế đời trước. Vừa lên ngôi, Hàm Phong Đế phải đương đầu không chỉ với các thách thức đối nội, mà còn chứng kiến lãnh thổ Trung Quốc bắt đầu chịu sự xâm nhập mạnh mẽ của các đế quốc phương Tây.

Củng cố nội trị

Hàm Phong Đế ngự Long bào đọc sách.

Hàm Phong Đế tuổi trẻ lên ngôi, quyết chí rửa sạch sẽ Quân cơ xứ, phân công cải cách phái quan viên ảnh hưởng chính trị, lại cấc nhắc nhiều quan liêu từ tầng lớp Hán quân kỳ. Theo Thanh Văn Tông thật lục (清文宗实录) cho thấy, lúc này công tác cực kỳ chăm chỉ, mỗi ngày đều có rất nhiều chỉ dụ hạ đạt, trong đó không ít là tự tay viết châu phê, chu dụ, thậm chí Quân cơ Đại thần cũng trở nên rảnh tay vì không phải đụng đến tấu chương. Sau khoảng 8 tháng lên ngôi, Hàm Phong Đế bãi miễn Quân cơ đại thần Mục Chương A, lại bãi miễn Kỳ Anh (耆英), đây đều là theo phái chủ hòa. Sau khi lên ngôi, vì muốn hòa hoãn với Cung thân vương Dịch Hân, Hàm Phong Đế cũng trao cho Dịch Hân chức vụ Quân cơ Đại thần, về sau dần tìm cớ bãi miễn, củng cố hoàng quyền cho bản thân. Sau khi bãi miễn Chủ hòa phái, Hàm Phong Đế sau đó liền đưa người của mình vào Quân cơ Đại thần. Ông lệnh cho Túc Thuận (肃顺) cải cách quan viên phe phái, chính trị cục diện thực hành chỉnh đốn. Túc Thuận cầm quyền, lấy thủ đoạn mạnh mẽ, cứng rắn phương thức đối mặt với cơ chế quan liêu hủ bại từ thời Càn Long đến nay qua Gia Khánh - Đạo Quang lưỡng triều, nghiêm khắc đả kích tham ô hủ bại, nghiêm trị không làm tròn trách nhiệm thất trách, nghiêm túc quan trường chính phong. Túc Thuận giải quyết triệt để Mậu Ngọ khoa trường án (戊午科场案), đem Nhất phẩm đại quan Bách Tuấn (柏葰) xử tử, đem đến một thời gian quan trường tàn hại sau thời Càn Long đổi sang một trang mới[1].

Vào ngay khi ông lên ngôi, Đại Thanh đã đối mặt với Thái Bình Thiên Quốc do Hồng Tú Toàn cầm đầu vào giữa thế kỷ 19, lại có thêm Niệp quân hoạt động ở phía bắc Trường Giang chống lại chính quyền. Năm Hàm Phong thứ 3 (1853), khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc tạm được dẹp loạn do Hàm Phong cử một vài vị tướng quan trọng tham gia cuộc chiến chống quân Thái Bình Thiên Quốc, trong đó có Tăng Quốc PhiênTăng Cách Lâm Thấm. Năm thứ 4 (1854), là cuộc bạo loạn do người H'Mông, hay còn gọi là người Miêu khởi xướng tại Vân Nam. Năm thứ 6 (1856), bắt đầu nổi dậy phong trào ly khai của người Hồi (回) theo Hồi giáo (còn gọi là cuộc nổi dậy Panthay) ở Vân Nam, cùng năm đó diễn ra Chiến tranh nha phiến lần thứ hai. Cũng năm thứ 6 ấy, nhân Thái Bình Thiên Quốc nội loạn, Hàm Phong Đế dựa vào dân tộc Hán địa chủ Tăng Quốc Phiên, Tả Tông Đường cùng Lý Hồng Chương hợp lực dập tắt Thái Bình Thiên Quốc vận động.

Lúc này bộ Hộ thiếu thốn, Thanh triều đình lệnh phát hành tiền mặt, lại dấy lên vấn nạn lạm phát kinh hoàng. Mà nghiệp quan thừa cơ cấu kết, "Xâm chiếm tham ô", "Cự thu mua để", từ giữa kiếm chác lợi nhuận kếch xù, dân chúng rơi vào cảnh khốn khó do hậu quả cải cách tiền lệ thất bại cùng sự chèn ép của các hộ nhà giàu. Năm Hàm Phong thứ 8 (1858), Túc Thuận chuyển công tác Hộ bộ Thượng thư, quyết tâm chỉnh đốn tài chính tệ nạn kéo dài lâu ngày.

Nhưỡng ngoại thất lợi

Khi Hàm Phong Đế bận đối phó Thái Bình Thiên Quốc, thì Anh Pháp lại nhăm nhe nhúng chàm Đại Thanh.

Năm Hàm Phong thứ 4 (1854), Anh, PhápMỹ đưa ra Tu ước (修约) yêu cầu và bị cự tuyệt. Vào năm thứ 6 (1856), lực lượng liên quân Anh-Pháp lại một lần nữa chống đối Thanh triều, viện cớ Á La Hào sự kiện (亚罗号事件; The Arrow Incident) chiếm Quảng Châu, nhưng bị đánh lui.

Năm Hàm Phong thứ 8 (1858), Anh, Pháp, Mỹ cùng Nga liên quân đến Thiên Tân đàm phán, lại gợi nên cái gọi là Tu ước. Hàm Phong dụ Trực Lệ Tổng đốcĐàm Đình Tương "lấy di chế di", đối Nga rất tốt, còn Mỹ nghĩ cách ràng buộc, đối Pháp khuyến dụ, đối Anh nghiêm khắc chất vấn. Đàm Đình Tương phụng chỉ hành sự, nhưng là không có thành công. Anh Pháp liền công chiếm Đại Cô Khẩu pháo đài (大沽口炮台), bức tới Thiên Tân. Hàm Phong Đế điều Quế Lương, Hoa Sa Nạp nghị hòa, cùng Anh-Mỹ-Pháp-Nga phân biệt ký kết: Trung-Anh Thiên Tân điều ước (中英天津条约); Trung-Mỹ Thiên Tân điều ước (中美天津条约); Trung-Pháp Thiên Tân điều ước (中法天津条约) và Trung-Nga Thiên Tân điều ước (中俄天津条约). Điều ước hàng mẫu tấu lên, Hàm Phong Đế thập phần phẫn nộ, nhưng là không thể không phê chuẩn. Cường quốc không thỏa mãn với 《Thiên Tân điều ước》 quy định quyền lợi, có ý định một lần nữa khơi mào chiến tranh. Hàm Phong Đế tăng mạnh phòng ngự cho Đại Cô Khẩu. Năm thứ 9 (1859), Anh-Pháp liên quan khi đang có ý định khơi mào thì bị đánh bại. Hàm Phong Đế thấy Đại Cô Khẩu thắng lợi, hủy 《Thiên Tân điều ước》. Rồi sau đó, Anh-Pháp điều binh khiển tướng, chuẩn bị xâm lược lần nữa.

Cầu Bát Lý, đêm diễn ra trận đánh, tranh vẽ bởi Émile Bayard.

Năm Hàm Phong thứ 10 (1860), mùa xuân, Anh-Pháp liên hoa xâm quân chiến lược. Tháng 6, hướng Đại Cô Khẩu tiến công. Hàm Phong Đế chỉ dụ: "Thiên hạ căn bản, không ở cửa biển, mà ở kinh sư.". Tháng 7, tiến công Bắc Đường. Ở thúc quân Thanh cùng Anh-Pháp liên quân chiến đấu kịch liệt, thế nhưng Hàm Phong Đế lại lệnh quân Thanh Thống soái lui lại, Đại Cô Khẩu lại lần nữa luân hãm. Ngày 1 tháng 8, Anh-Pháp đến ngoại hải Thiên Tân. Ngày 18 tháng 9, tại quận Thông Châu quân xâm lược Anh-Pháp đụng độ và xảy ra trận chiến quyết liệt với đội quân Mông Cổ do Tăng Cách Lâm Thấm chỉ huy trước khi tiến đánh vùng ngoại ô thành phố Bắc Kinh. Ngày 21 tháng 9, 10.000 tướng sĩ của đội quân, bao gồm nhiều tướng sĩ tài giỏi xuất chúng đã bại trận, hơn 1.200 người bị lực lượng Anh-Pháp giết bằng vũ khí hỏa lực trong Trận Bát Lý Kiều (diễn ra trên cầu Bát Lý). Sau đó, liên quân Anh-Pháp đánh chiếm Bắc Kinh vào 6 tháng 10 năm ấy. Hàm Phong Đế vội sai Di Thân vương Tái Viên, cùng Binh bộ Thượng thư Mục Khấm làm Khâm sai đại thần đến Thông Châu nghị hòa. Dẫu vậy, Anh-Pháp liên quan vẫn quyết liệt tiến đến Bắc Kinh. Sử gọi Canh Thân lỗ biến (庚申虏变).

Tháng 9, Hàm Phong Đế cùng Hoàng tộc phải rời Tử Cấm Thành đến Thừa Đức để lánh nạn. Ông cử Cung Thân vương Dịch Hân thay mặt ông đến đàm phán, kí kết Bắc Kinh điều ước (北京条约) cùng quyết định phê chuẩn lại Thiên Tân điều ước năm nào. Nhưng kết cục mối quan hệ với quân Anh-Pháp rạn nứt khi Harry Smith Parkes bị bắt giam ngay trong cuộc đàm phát ngày 18 tháng 9.

Ngày 18 tháng 10, liên quân Anh-Pháp liên tiếp bắn phá Viên Minh viênDi Hòa viên, khiến Viên Minh viên bị phá hủy hoàn toàn, còn Di Hòa viên bị hư hại nặng. Nghe tin Viên Minh viên xa hoa tráng lệ bị đốt phá, Hàm Phong Đế cảm thấy nhục nhã và đau buồn khôn xiết. Ông bắt đầu lạm dụng rượu và thuốc phiện khiến sức khỏe ngày càng suy sụp.

Dưới thời Hàm Phong Đế, Trung Quốc mất đi một phần vùng đất Mãn Châu vào tay Đế quốc Nga. Theo Điều ước Ái Hồn (瑷珲条约) (1858), được kí kết lại ngay trận Bắc Kinh thất thủ, lãnh thổ giữa dãy núi Stanovoysông Amur phải nhượng lại cho Nga, và tương tự khu vực phía Đông của sông Ussuri theo Hiệp ước Bắc Kinh (北京條約) (1860). Sau Hiệp ước, người Nga đặt tên lãnh thổ vừa sáp nhập là thành phố Vladivostok.

Trú tại Nhiệt Hà

Ngự phê của Hàm Phong Đế

Trong lúc đàm phán với cường quốc Châu Âu, Hàm Phong Đế cùng Hoàng thất cũng như các cận thần trong triều lấy cớ đi săn bắn để trốn sang Nhiệt Hà, khi ấy ông đã yếu sức, sau thất bại ở Bắc Kinh thì cũng không còn khả năng trị quốc. Hàm Phong Đế cũng có vài lần ý định hồi loan, nhưng nghe thiệt hại ở Bắc Kinh, cùng với việc dần rất thích Nhiệt Hà sinh hoạt mà ở lại đây luôn.

truyền thuyết kể lại, Hàm Phong Hoàng đế tuổi trẻ vốn đam mê tửu sắc, trong Viên Minh viên tìm thấy loại xuân dược ông hay dùng. Ngoài tam cung lục viện, ông còn đặt ra "Ngũ Xuân Chi Sủng" (五春之宠) trong vườn gồm có: Thiên Địa Nhất Gia Xuân (天地一家春), tẩm cung của Ý Quý phi Diệp Hách Na Lạp thị, và 4 chữ "Xuân" khác là Hạnh Hoa Xuân (杏花春), Vũ Lăng Xuân (武陵春), Hải Đường Xuân (海棠春), Mẫu Đơn Xuân (牡丹春), đều là nơi ở của mĩ nữ Hán tộc[2]. Tương truyền theo gia pháp nhà Thanh, người Hán được phép nhập cung và ban danh phận rất ít, Hoàng đế phải ưu tiên các cô gái Mãn Châu nên Hán nữ trong vườn được Hàm Phong sủng hạnh đều không phong hiệu. Tuy vậy, số lượng mĩ nữ nhiều vô số kể, trong đó có cả ca kỹgóa phụ. Ông thường xuyên tổ chức xem cải lương múa hát, uống rượu hoang dâm cùng các mĩ nữ phi tần. Điều này làm ông hao tổn sức khỏe đáng kể, sau thừa kế ngai vàng gặp nhiều biến cố quốc gia đại sự nên ông càng sa vào cơn nghiện nha phiến.

Bên cạnh Hàm Phong Đế lúc này, Túc Thuận được trọng dụng hơn cả, ông khuyên Hàm Phong nên ở Nhiệt Hà, còn mọi việc có Cung Thân vương Dịch Hân đám người xử lý. Cung Thân vương thấy Hàm Phong Đế chậm chạp hồi kinh, lại thỉnh thoảng nghe tin báo từ Nhiệt Hà rằng Hoàng đế ngày một yếu sức nên rất khẩn trương, nhiều lần đệ đơn xin đến Nhiệt Hà vì lo ngại ảnh hưởng của Túc Thuận. Tấu chương của Cung Thân vương bị Túc Thuận quấy nhiễu, bởi vậy mâu thuẫn giữa Cung Thân vương và Túc Thuận trở nên rất gay gắt.

Băng hà

Năm Hàm Phong thứ 11 (1861), ngày 15 tháng 7, khi ở tẩm cung Tị Thử Sơn Trang, Hàm Phong Đế không khỏe.

Sang ngày thứ 16, Hàm Phong Đế triệu Di Thân vương Tái Viên, Trịnh Thân vương Đoan Hoa (端华), Túc Thuận, Cảnh Thọ (景寿), Mục Ấm (穆荫), Khuông Nguyên (匡源), Đỗ Hàn (杜翰) cùng Tiêu Hữu Doanh (焦祐瀛) thị hầu. Trên giường bệnh, Hoàng đế ra chỉ lập Hoàng trưởng tử Tải Thuần làm Hoàng thái tử, cùng lệnh 8 người bọn họ thị hầu giúp đỡ Tân đế sự vụ, đấy chính là Cố mệnh Bát đại thần (顾命八大臣)[3]. Trước khi bệnh hồ đồ, Hàm Phong Đế trao cho Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị một con dấu [Ngự thưởng; 御赏], trao cho Thái tử con dấu [Đồng Đạo đường; 同道堂], do mẹ sinh của Thái tử là Ý Quý phi Diệp Hách Na Lạp thị giữ do Thái tử mới 5 tuổi.

Ngày 17 tháng 7 (tức ngày 22 tháng 8 dương lịch), Hàm Phong Hoàng đế băng hà ở Tị Thử Sơn trang tẩm cung, thọ 30 tuổi[4]. Miếu hiệu của ông là Văn Tông (文宗), thụy hiệu sau khi mất của ông là Hiệp Thiên Dực Vận Chấp Trung Thùy Mô Mậu Đức Chấn Vũ Thánh Hiếu Uyên Cung Đoan Nhân Khoan Mẫn Trang Kiệm Hiển Hoàng đế (協天翊運執中垂謨懋德振武聖孝淵恭端仁寬敏莊儉顯皇帝). Ông được an táng tại Định lăng, thuộc Thanh Đông lăng.

Liên quan